Không phải tò mò nữa, đây là cách đếm giọt dịch truyền một cách đơn giản

Biết cách tính toán lượng thuốc truyền cần thiết theo nhu cầu của bệnh nhân cũng quan trọng như hiểu loại và liều lượng thuốc phải truyền cho bệnh nhân để bệnh nhân nhanh chóng hồi phục. Nhiệm vụ này thường được thực hiện bởi nhân viên y tế, những người theo dõi tình trạng của bạn. Nhưng với tư cách là một bệnh nhân, bạn sẽ không bao giờ gặp khó khăn khi học những kỹ thuật cơ bản này với những phép tính đơn giản.

Học cách đếm lượng giọt nhỏ giọt với sự chuẩn bị này

Khi học cách đếm số lượng nhỏ giọt cho dịch truyền này, bạn sẽ cần chuẩn bị các thiết bị cơ bản như kim và ống tiêm để phân phát thuốc hoặc chất lỏng từ lọ. Mặt khác, tuôn ra Cũng cần đẩy thuốc vào ống tĩnh mạch hoặc túi dịch. Có 2 phương pháp truyền dịch qua đường tĩnh mạch hay còn gọi là hệ số giọt, đó là đặt vĩ mô và đặt vi mô.
  • Bộ macro:

    Để cho 1 mL dịch truyền, trong quá trình truyền, điều dưỡng viên sẽ mở lỗ nhỏ giọt dịch truyền có đường kính lớn hơn, do đó số giọt chảy ra cũng ít hơn, chỉ từ 10 - 20 giọt.

  • Bộ micro:

    Để cho 1 ml dịch truyền, lỗ nhỏ giọt truyền chỉ được mở ra một chút, do đó số giọt chảy ra cũng nhiều hơn, cụ thể là 45-60 giọt.

Việc xác định bộ vĩ mô hay vi mô sẽ tùy thuộc vào sở thích và nhu cầu theo hướng dẫn của bác sĩ. Tuy nhiên, tiêu chuẩn thường được sử dụng phụ thuộc vào loại chất lỏng phải được đưa vào cơ thể bạn. Nếu chất lỏng trong và chảy nước, y tá có thể truyền tĩnh mạch 20 giọt / 1 mL. Trong khi đó, nếu IV đặc hơn như máu, bạn có thể nhận được 15 giọt / 1 mL. [[Bài viết liên quan]]

Cách đếm nhỏ giọt nhỏ giọt

Bệnh nhân cũng có thể học cách đếm số giọt nhỏ giọt. Khi truyền dịch nhỏ giọt vào tĩnh mạch bằng máy tự động, y tá chỉ cần nhập lượng dịch phải vào cơ thể bạn, và thời gian đưa vào cơ thể. Trong khi đó, nếu dịch truyền được nhập thủ công, phương pháp tính số giọt dịch truyền được thực hiện bằng cách biết số giọt trong một phút (TPM). Công thức để tính TPM chính nó là:

(hệ số giảm x thể tích chất lỏng) / (60 x thời gian dùng thuốc tính theo giờ) Hệ số nhỏ giọt là một trong những yếu tố quan trọng trong việc tính toán giọt dịch truyền mà nhân viên y tế cần biết. Như đã mô tả ở trên, y tá của bạn có thể chọn bộ macro hoặc bộ vi mô. Ví dụ, bác sĩ hướng dẫn bệnh nhân truyền 500 mL dịch truyền tĩnh mạch trong vòng 8 giờ, trong khi hệ số giọt đã đặt là 20. Với dữ liệu này, phương pháp tính lượng dịch truyền phải truyền cho bệnh nhân là: (500 x 20) / (60 x 8) = 20,83 Tức là bạn sẽ nhận được khoảng 20-21 giọt chất lỏng IV trong 1 phút trước khi chất lỏng trong túi IV hết và được thay bằng túi mới.

Biết loại dịch truyền

Có 4 loại dịch truyền tĩnh mạch thường được sử dụng cho bệnh nhân. Sau khi biết cách đếm lượng dịch nhỏ giọt, điều quan trọng là bạn phải nhận biết chính loại dịch IV. Căn cứ vào công dụng, bản thân các loại dịch truyền được chia thành 4 nhóm, đó là dịch duy trì, dịch thay thế, dịch đặc biệt và dịch dinh dưỡng.

1. Chất lỏng bảo dưỡng

Dịch truyền này thường được truyền cho những bệnh nhân không thể đáp ứng đủ nhu cầu điện giải, nhưng chưa đến giai đoạn nguy kịch hoặc mãn tính. Mục đích của việc truyền chất lỏng này là cung cấp đủ chất lỏng và chất điện giải để đáp ứng những mất mát không thể tránh khỏi (500-1000 mL), duy trì trạng thái cơ thể bình thường và cho phép thận bài tiết các chất thải (500-1500 mL). Các loại dịch truyền có thể được sử dụng là NaCl 0,9%, glucose 5%, nước muối glucose, và Ringer lactate hoặc acetate. Việc truyền dịch này vẫn phải có sự chỉ định của bác sĩ hoặc nhân viên y tế có thẩm quyền.

2. Chất lỏng thay thế

Những dịch truyền tĩnh mạch này được truyền cho những bệnh nhân bị thiếu hụt chất điện giải và có vấn đề với việc phân phối lại chất lỏng bên trong.

Những chất lỏng này thường được yêu cầu ở những bệnh nhân có vấn đề về đường tiêu hóa (cắt hồi tràng, lỗ rò, dẫn lưu dạ dày và dẫn lưu phẫu thuật) hoặc các vấn đề về đường tiết niệu (ví dụ như khi đang hồi phục sau suy thận cấp).

3. Chất lỏng đặc biệt

Ý nghĩa của chất lỏng đặc biệt là các chất kết tinh như natri bicarbonat 7,5% hoặc canxi gluconat. Mục đích của việc truyền dịch qua đường tĩnh mạch này là để làm giảm các rối loạn cân bằng điện giải xảy ra trong cơ thể.

4. Chất lỏng dinh dưỡng

Khi người bệnh không muốn ăn, không ăn được, không ăn được bằng đường miệng thì dịch tĩnh mạch chứa chất dinh dưỡng này sẽ được đưa vào cơ thể. Dịch dinh dưỡng này được cung cấp nếu bệnh nhân:
  • Suy giảm khả năng hấp thụ thức ăn chẳng hạn như lỗ rò enterokunate, tắc ruột, viêm đại tràng nhiễm trùng hoặc tắc ruột
  • Các điều kiện yêu cầu ruột nghỉ ngơi như trong viêm tụy nặng, tình trạng trước mổ suy dinh dưỡng nặng, đau thắt ngực, hẹp động mạch mạc treo tràng và tiêu chảy tái phát.
  • rối loạn nhu động ruột, như trong tắc ruột kéo dài, tắc nghẽn giả và xơ cứng bì.
  • rối loạn ăn uống, nôn mửa dai dẳng, rối loạn huyết động, và chứng buồn nôn.
Bất kể loại chất lỏng nào, phương pháp tính số giọt truyền vẫn giống nhau, cụ thể là sử dụng công thức cho số giọt mỗi phút (TPM).